Các tông phái Phật giáo và đặc điểm của từng tông phái
Nội dung chính [Hiện]
Phật giáo là một tôn giáo lớn và được truyền bá rộng rãi qua nhiều quốc gia. Vậy nên các tông phái của Phật giáo rất đa dạng, mỗi tông phái sẽ tôn thờ một tôn chỉ, giáo lý của Đức Phật phù hợp với pháp môn tu tập và ý nguyện riêng. Phật giáo có hai tông phái lớn là Đại Thừa và Tiểu Thừa. Ở mỗi tông phái chia ra thành nhiều phái khác nhau, Mỗi phái lại có những tôn chỉ và giáo lý khác nhau. Để hiểu rõ hơn về các tông phải của Phật Giáo, mời các bạn cùng Tử Vi Hội Quán tìm hiểu chi tiết trong bài viết này.
A. Sự hình thành các tông phái
Sau khi Phật nhập Niết Bàn một trăm ngày, có 500 vị Thượng Toạ trưởng lão (Sthavias) tổ chức cuộc kết tập lần đầu trong hang Saltapanni rừng nigradha cử Tôn giả Ma Ha Ca Diếp làm Thủ tọa, ngài A Nan trùng tuyên những lời Phật dạy làm thành tạnh kinh, cử Ngài Ưu Ba Li đọc lại các điều răn của Phật để kết tập Luật tạng, tôn giả đại Ca Diếp đứng đầu coi việc giải thích đạo lý trong Kinh, làm thành bộ Luận tạng. Gọi chung là Tam Tạng (Tripitaka).
Một trăm năm sau, trong giáo đoàn có sự tranh luận về cách giữ giới luật và cách hành đạo. Các vị trưởng lão Thượng toạ triệu tập cuộc kết tập lần thứ hai ở thành Xá Vệ, đề cử Thượng Toạ Yaca làm Thủ toạ. Kết quả phái Thượng toạ trưởng lão vẫn giữ phương thức bảo thủ, phái đại chúng giữ phương thức Tiến Thủ. Nhưng cả hai không rời tôn chỉ của Phật.
Vào khoảng 200 năm sau Phật nhập diệt, vua Asoka ( A Dục Vương 227 – 274 trước Tây lịch ) triệu tập cuộc kết tập lần thứ ba ở thành Pataliputra.
Vào khoảng 500 năm sau Phật nhập diệt (thế kỷ I sau Tây Lịch) vua xứ Nhục Chi là Kanisnka, giữ bá quyền vùng Tây Bắc Ấn Độ, rất sùng đạo, triệu tập cuộc kết tập lần thứ tư ở thành Jalandhara, do hai Thượng Toạ Pârcya và Vasumitra làm Thủ toạ, đây là cuộc kết tập lần cuối cùng.
Từ đó trong Phật giáo có hai tông phái lớn là: Tiểu Thừa và Đại Thừa, hai bên tuy phân biệt ra như thế nhưng vẫn theo tôn chỉ của Phật. Đại Thừa thì theo tinh thần Phật dạy mà tiến hóa hợp hợp khế cơ. Tiểu Thừa thì một mực trì thủ lời Phật trong các kinh chứ không thay đổi.
Hiện nay theo các kinh của Hán Tạng thì có 11 tông phái đang hoàng pháp.
B. Các tông phái
I. Tông Phái Tiểu Thừa
1. Câu Xá Tông
Do ngài Thế Thân Bồ Tát lấy ý nghĩa trong kinh Đại Tỳ Bà Sa (Mahahvibhasacastra) viết thành bộ Câu Xá Luận, được Ngài Trần Châu dịch rồi truyền sang Trung Hoa rất sớm nhung sau đó thất truyền. Đến khi Ngài Huyền Trang sau chuyến Tây du thỉnh kinh mới đem về dịch lại bộ luật này, rồi đệ tử Ngài là Phổ Quang dựa vào mà làm nên “ Câu Xá thuật ký ” và Ngài Pháp Bảo làm bộ “ Câu Xá luận sớ ” thì Câu xá mới thành một tông phái là Tông Câu Xá nhưng chỉ thịnh hành đến cuối thế kỷ thứ IX thì suy vong và nhường chỗ cho các tông phái Đại thừa.
Câu Xá Tông chia vạn hữu ra thành Vô Vi Pháp và Hữu Vi Pháp. Vô Vi Pháp chỉ về cảnh giới thường trụ không sinh không diệt, tức là lý thể. Hữu Vi Pháp chỉ về vạn hữu trong hiện tượng giới sinh diệt vô thường.
Căn bản giải thoát dùng Giới, Định, Tuệ để hiểu rõ lý nhân quả của Tứ Diệu Đế. Dùng tam học ấy mà đi tới giải thoát tức là vào Niết bàn.
2. Thành Thực Tông
Tông này đồng thời với Câu Xá Tông, do ngài Ha Lê Bạt Ma (Harivarma) y vào ý nghĩa Bộ Thành Thật Luận mà lập ra vào khoảng 900 năm sau khi Đức Phật nhập diệt.
Thành Thực Tông chia thế giới quan ra làm hai môn: Thế giới môn và đệ nhất nghĩa môn.
Tông này chủ trương “Nhân không và Pháp không”. Người và Pháp cả hai đều không. Thi hành Diệt đế, chân lý thứ 3 trong Tứ Diệu đế cũng đủ an lạc, giải thoát lục đạo.
II. Tông Phái vừa Tiểu Thừa vừa Đại thừa
1. Luật tông
Tông này lấy giới luật làm căn bản. Đến đời Đường, Ngài Trí Thủ luận sư chú giải những bộ luật (Thập tụng luật, Tứ phần luật, Ngũ phần luật, Tăng kỷ luật) và đệ tử của Ngài, Đạo Tuyên luận sư nhận thấy có 68 bộ Luật tứ phần hợp với căn cơ của người Trung Hoa nên đã căn cứ vào bộ luật nầy mà lập “ Luật tông ”.
Luật tông chủ trương lấy tu rồi sẽ hiểu, hãy giữ giới cho nghiêm tịnh thì tâm sẽ định tĩnh thanh tịnh và trí tuệ sẽ phát sinh, chân tâm sẽ hiễn bày, Phật tánh sẽ hiễn lộ.
2. Thiền Tông
Tông nầy nguyên thuỷ thuộc về Không Bộ bên Tiểu Thừa. Thiền Tông không bàn luận về vũ trụ, căn bản là ngộ đạo mà thôi (giải thoát), là một tông phái lấy tham thiền nhập định làm căn bản tu hành.
Thiền Tông chủ trương “ bất lập văn tự ”, chỉ cốt “ tâm truyền tâm ”, thực tướng của vũ trụ thuộc về trực giác. Nếu lấy văn tự mà giải thích thì tất cả sa vào hiện tượng giới, không thể đạt tới thực tướng được. Phi tọa thiền và trực giác thì không sao biết được thực tướng.
III. Sáu Tông Đại Thừa
1. Pháp Tướng tông
Tông này lấy Thành Duy Thức Luận làm gốc, tại Ấn độ do Ngài Thế Thân phát triển và tại Trung Hoa do Ngài Huyền Trang truyền bá sau chuyến Tây du thỉnh kinh trở về.
Chủ trương vạn Pháp đều do thức biến ra. (Tam giới duy tâm, vạn Pháp duy thức) Thức có 8: Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức, Mạt Na Thức. Trong 8 thức thì A Lại Gia Thức là căn bản, vì chứa hết thảy Chủng Tử để sinh khởi nhất thiết chư Pháp.
2. Tam Luận Tông
Tông này lấy Trung Luận và Thập Nhị Môn Luận của Ngài Long Thọ Bồ Tát và Bách Luận của Ngài Đề Bà làm căn bản, chủ trương là phá chấp nêu bày chánh lý với phương pháp tu hành là phá sự chấp trước của ngọai đạo để chứng ngộ chân lý bằng cách quán pháp “Bát bất trung đạo”.
Về phương diện đạo lý, Tam Luận tông giống như cửa ải muốn tiến bước trên con đường giải thoát phải buông bỏ “Chấp trước”, nếu không muốn bị phát hiện món hàng quốc cấm đó khi qua ải.
3. Thiên Thai Tông (Pháp hoa tông)
Tông này khởi phát ở Trung Hoa, do ngài Huệ Văn Thiền Sư đời Trần và đời Tuỳ (vào khoảng thế kỷ thứ 6) theo ý nghĩa bộ Trí Độ Luận tức là Bát Nhã Ba La Mật Đa luận và lấy Pháp Hoa Kinh làm gốc, nên còn gọi là Pháp Hoa Tông.
Thiên Thai chủ trương thuyết “ Chư Pháp duy nhất tâm ”. Tâm ấy tức là chúng sanh, tâm ấy tức là Bồ Tát, Phật sinh tử hay Niết Bàn cũng ở nơi tâm ấy. Khi đã thấu suốt chân lý là chân lý là giải thoát lý chấp trước. Cuối cùng phải triệt ngộ thật tướng của vũ trụ. Do vô vi, do niệm đạt tới sự hoạt động của đại ngã, đại vi.
4. Hoa Nghiêm Tông (hay Hiền Thủ tông)
Tông này cũng phát khởi ở Trung Hoa căn cứ ở Hoa Nghiêm Kinh do Đỗ Thuận và Trí Nghiêm Hoà Thượng ở đời Tuỳ và Đường lập ra, người có công kế thưà và xiển dương là là Ngài Pháp tạng còn gọi là Hiền Thủ.
Tông này theo chủ trương “ Pháp giới duyên khởi ” Vạn hữu có tam đối lục tướng là do thập huyền môn, thập huyền diệu, lý duyên khởi và lục tướng viên dung mà phát sinh lý “ Sự sự vô ngại ”. Đây là cái đặc sắc của giáo lý Hoa Nghiêm Tông.
Theo Tông này thì phân biệt chân vọng dứt trừ điên đảo. Để tâm thanh tịnh cùng thực tại Nhất Như là giải thoát.
5. Mật tông (hay Chân Ngôn Tông)
Tông này căn cứ ở Đại Nhật Kinh, lấy bí mật Chân Ngôn làm Tông chỉ, nên cũng gọi là Mật Tông.
Đại Nhật Như Lai truyền cho Kim Cương Tát Đỏa, Kim Cương Tát Đỏa truyền cho Long Trí, Long Trí truyền cho Kim Cương trí, Kim Cương Trí cùng với Bất Không đem qua trung Hoa vào khoảng đời Đường. Chân Ngôn Tông chủ trương thuyết Lục đại : Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Thức. Cho lục đại là thực của vũ trụ.
Sự giải thoát của Tông nầy là do tự thân thành Phật, cho nên bỏ hết chấp trước mà theo cái hoạt động của Đại ngã với phương thức Tam mật (Thân, Khẩu, Ý).
6. Tịnh Độ Tông
Tông nầy lấy việc quy y tịnh độ làm mục đích, chuyên trì tụng các kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, A Di Đà. Tịnh Độ Tông phát khởi từ đời nào không rõ, chỉ thấy trong kinh điển ghi các vị Bồ Tát Long Thọ, Mã Minh, Thế Thân khuyên mọi người nên tu Tịnh Độ. Tịnh Độ Tông cho rằng mỗi người ai cũng có Phật tính, đều có thể thành Phật, vì ở thế gian phiền não nên cầu về cõi Cực Lạc Tây Phương. Vì tự lực khó đạt nên càu tha lực Đức Phật A Di Đà.