Đền Cả - Mỏ Hạc Linh Từ - Dinh đô quan Hoàng Mười ở Hà Tĩnh

Đền Cả nằm ở tổ dân phố Hầu Đền, phường Trương Lương, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, là một trong những ngôi đền nổi tiếng linh thiêng.

 0  3
Đền Cả - Mỏ Hạc Linh Từ - Dinh đô quan Hoàng Mười ở Hà Tĩnh

Giữa vùng địa linh nhân kiệt nơi hồn thiêng sông núi tụ hội, dưới chân dãy Hồng Lĩnh huyền thoại – biểu tượng của non thiêng xứ Nghệ – có một ngôi đền cổ kính mang tên Đền Cả, hay còn gọi là Dinh đô quan Hoàng Mười, Mỏ Hạc Linh Từ. Không chỉ là nơi thờ tự linh thiêng, Đền Cả còn là biểu tượng văn hóa tâm linh sâu sắc, kết tinh của niềm tin dân gian, tín ngưỡng thờ Thánh – đặc biệt là thờ Quan Hoàng Mười, vị Thánh thuộc hệ thống Tứ Phủ trong đạo Mẫu Việt Nam.

Từ bao đời nay, ngôi đền ấy không chỉ là nơi để người dân gửi gắm lời khấn cầu an lành, phúc lộc, mà còn là chốn linh thiêng kết nối giữa cõi thế và cõi linh, nơi mà lòng thành kính, đức tin và âm dương giao hòa trong từng nén hương trầm quyện khói. Vị trí của đền – nằm trên thế đất “mỏ hạc chầu linh” nơi ba dòng sông hợp thủy – được xem là long mạch quý hiếm, hội tụ linh khí trời đất, khiến Đền Cả trở thành một điểm thờ tự quan trọng, linh thiêng bậc nhất tại vùng đất Hà Tĩnh.

Vị trí Đền Cả

Tựa như viên minh châu ẩn mình bên dòng sông cổ kính, Đền Cả toạ lạc tại tổ dân phố Hầu Đền, phường Trường Lương, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh – một vùng đất hội tụ linh khí sông núi, dưới chân dãy Hồng Lĩnh linh thiêng. Để đến với di tích này, từ trung tâm thành phố Vinh, du khách đi theo Quốc lộ 1A theo hướng Nam. Khi vừa vào địa phận thị xã Hồng Lĩnh – tại khu vực Đê La Giang, cách Ngã tư trung tâm thị xã khoảng 3km về phía Bắc – thì rẽ phải, men theo con đường dọc đê khoảng 2km nữa sẽ đến Cống Trung Lương. Ngay cạnh Cống là di tích Đền Cả sừng sững soi bóng giữa đất trời – nơi giao hòa của ba con sông linh thiêng: sông Lam, sông La và sông Minh.

Không chỉ là một địa danh dễ tìm trên bản đồ hành hương, Đền Cả còn hiện diện như một điểm tụ linh – nơi mà thiên – địa – nhân tương thông, nơi mà lòng người khấn nguyện được vọng về miền thiêng của Quan Hoàng Mười. Vị trí đắc địa bên dòng nước hội tụ, thế đất “mỏ hạc chầu linh” càng khiến cho Đền Cả thêm phần huyền diệu, xứng đáng là một trong những ngôi đền nổi tiếng linh thiêng nhất vùng Bắc Trung Bộ.

Ý nghĩa tên gọi Đền Cả

Tên gọi “Đền Cả” không chỉ là một cách định danh đơn thuần, mà còn là sự kết tinh của lịch sử, văn hóa và tín ngưỡng bản địa. Theo truyền thống dân gian, bởi đây từng là ngôi đền lớn nhất, linh thiêng bậc nhất trong cả tổng – tức khu vực hành chính cổ – nên được gọi là “Cả”, với hàm nghĩa “lớn nhất”, “cao nhất”, “tối linh”. Cách gọi ấy không chỉ phản ánh quy mô kiến trúc và vai trò trung tâm của ngôi đền trong đời sống tâm linh cư dân, mà còn thể hiện sự kính trọng và niềm tin sâu sắc vào linh khí nơi đây.

Ngoài tên gọi “Đền Cả”, nhân dân địa phương còn gọi đền là Dinh đô quan Hoàng Mười, bởi đây là nơi ngự của Quan Hoàng Mười – một trong Thập Vị Quan Hoàng thuộc hệ thống Tứ Phủ linh thiêng trong tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam. Danh xưng này không chỉ gắn với vị thần chủ đền, mà còn thể hiện đặc ân linh vị và quyền uy của đền trong dòng chảy văn hóa dân gian miền Trung.

Đặc biệt hơn cả, Đền Cả còn mang tên Mỏ Hạc Linh Từ – một mỹ hiệu giàu tính biểu tượng. Sở dĩ có tên gọi này là vì ngôi đền được xây dựng trên vùng đất tụ linh, nơi giao nhau của ba con sông lớn: Sông Lam, Sông La và Sông Minh. Chính thế long thủy tụ hội ấy đã tạo nên hình thế “mỏ hạc” – một linh tượng thiêng liêng trong văn hóa Á Đông, biểu trưng cho sự thanh cao, thần linh giáng thế. Với dáng đất ấy, Đền Cả được ví như một “linh từ” của đất trời, nơi quy tụ linh khí của sông núi, là chốn hội tụ âm dương, giao hòa trời – đất – người.

Ba tên gọi – Đền Cả, Dinh đô quan Hoàng Mười, Mỏ Hạc Linh Từ – chính là ba tầng ý nghĩa đan quyện: lịch sử – tín ngưỡng – phong thủy, góp phần khẳng định vị thế đặc biệt của ngôi đền trong tâm thức người dân miền Trung nói riêng và tín đồ thờ Mẫu cả nước nói chung.

Quy mô Đến Cả

Theo tư liệu lịch sử và tư liệu truyền ngôn thì Đền được hình thành cách đây trên 800 năm, vào thời Nhà Lý. Đền có quy mô kiến trúc đồ sộ, được xây theo lối chữ “Nhất”; bao gồm: Nhà Thượng điện, Trung điện, Hạ điện và Hậu cung (hay còn gọi là cung cấm). Các cụ cao tuổi trong vùng cho biết thì trước những năm 1950, tại đây vẫn còn hiện hữu một ngôi đền rất lớn với ba tòa được làm bằng gỗ có chạm khắc cầu kỳ, có hai cột nanh lớn và các cặp voi đá, ngựa đá được tạc giống như thật với niên đại hàng trăm năm, nặng hàng tấn, xung quanh được trồng tre và những cây cổ thụ che chắn, rất trầm mặc, uy nghiêm.

Đến khoảng đầu năm 1960, do nằm ngoài đê, lại sát với mép Sông Lam nên Đền Cả dần bị lũ lụt cuốn trôi. Ban đầu là làm đổ cột nanh, sau lấn dần làm hư hỏng Tắc môn, nhà Hạ điện và các hiện vật trong đền như lư hương, tượng ông phổng, tượng quan văn, quan võ, đồ tế khí…bị cuốn trôi, cát vùi lấp. Vì vậy nên đến khoảng năm 1962 – 1963, mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh, bom đạn ác liệt nhưng chính quyền địa phương vẫn huy động sức dân để di dời phần còn lại của Đền Cả là nhà Trung điện vào trong đê để làm trường học. Nhà Trung điện này sau đó đến năm 2002 – 2003 thì được đưa về dựng tại đền Tiên Sơn.

Trước đó, vào năm 1996, chính quyền địa phương cũng đã cho di dời các cặp voi, ngựa đá vào dựng tại Đài Tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ và sau đó đến năm 2012 lại đưa sang đặt tại Tiên Sơn. Chính vì lẽ đó nên hiện nay tại đền Tiên Sơn vẫn còn tòa nhà Trung điện và các cặp voi đá, ngựa đá của Đền Cả rất đẹp.

Đến khoảng năm 2000 thì Đền Cả bị phế tích hoàn toàn, chỉ còn lại dấu vết của nền đền, chân móng cột nanh, ban thờ công đồng…Năm 2014, được sự cho phép của Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh, chỉ sau một thời gian ngắn, bằng sự đóng góp công sức của các doanh nghiệp, doanh nhân, các nhà hảo tâm và nhất là bà con nhân dân trên địa bàn nên các hạng mục cơ bản của Đền Cả đã dần được khôi phục.

Bên trong đền Cả – Đền Quan Hoàng Mười ở Hà Tĩnh

Đền Cả thờ quan Hoàng Mười

Cũng như những ngôi đền khác, Đền Cả được nhân dân phối thờ chung nhiều vị Thần; trong đó có cả Thiên thần, Nhân thần và Nhiên thần. Cụ thể: Ngoài vị thần được thờ chính là ông Hoàng Mười thì Đền còn thờ thần Tam Lang, hay Bà Lê Thị Ngọc Dung, con gái nuôi của Vua Lê Lợi.

Về truyền thuyết ông Hoàng Mười xứ Nghệ, tương truyền ông Hoàng Mười là một trong Thập vị Ông Hoàng, là con của Long Thần Bát Hải Đại Vương ở Hồ Động Đình (Trung Quốc). Trong kho văn chầu Tứ phủ có bài Thập vị Hoàng tử văn giới thiệu mười Ông Hoàng là những vị thần có hành trạng như sau:

Ông Hoàng Cả vua sinh ra đầu

Ông Hoàng Đôi vua sinh ra sau

Ông Hoàng Ba giữ việc đế vương

Ông Hoàng Tư làm chức thủy cung

Ông Hoàng Năm giữ ở đền rồng

Ông Hoàng Sáu trấn ở Hải Hà

Ông Hoàng Bảy làm nên gió, giật mưa sa

Ông Hoàng Tám cứu dân

Ông Hoàng Chín trấn ở đền Cờn

Ông Hoàng Mười làm quan Phủ Giày

Mặc dù vậy, ở các địa phương, mỗi Ông Hoàng lại được gắn với một nhân vật lịch sử khác nhau. Ông Hoàng Cả còn gọi là Hoàng đệ nhất hay Hoàng Quận là danh tướng tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, rồi làm quan dưới đời vua Lê Thái Tổ. Ông Hoàng Đôi (Hoàng Hai) với 2 nơi thờ mang những gốc tích khác nhau: Ông Hoàng Đôi ở Cẩm Phả (Quảng Ninh) là người Mán có công chống giặc bảo vệ dân lành, ông Hoàng Đôi ở xứ Thanh lại đồng nhất với quan Hoàng Triệu, người có công mở mang đất đai giúp dân sinh sống. Ông Hoàng Ba (Hoàng Bơ Thoải) với hình tượng cưỡi ngựa trắng, đeo cung tên, cầm khiên vàng, là một người toàn tài văn võ đã có công phò vua đánh giặc. Đền thờ ông ở xã Lãnh Giang, tục gọi là đền Lảnh (Hà Nam). Ông Hoàng Tư và Ông Hoàng Năm ở lại cõi Nước, không hiện lên chốn trần gian. Ông Hoàng Lục được gắn với Trần Lựu có công chống giặc Minh; ngoài ra ở Quảng Xương (Thanh Hóa), Ông Hoàng Sáu được ghép với Trần Nhật Duật là một vị tướng trí dũng toàn tài thời Trần. Ông Hoàng Bảy (Ông Hoàng Bảy Bảo Hà) là viên quan triều đình trấn giữ vùng Lào Cai, Yên Bái. Ông Hoàng Tám còn được gọi là ông Bát Nùng là người Nùng. Ông Hoàng Chín được thờ ở Đền Cờn, huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An). Ông Hoàng Mười trong truyền thuyết là một nhiên thần, là vị thần gắn với sông nước nhưng trong tâm thức người dân xứ Nghệ, ông Hoàng Mười đã được nhập thế trở thành con người cụ thể, mà trong bài chầu văn có viết:

Ông Hoàng Mười trấn thủ Nghệ An

Ra huyện Thiên Bản làm quan Phủ Giày.

Tuy nhiên, việc ông Hoàng Mười làm quan Trấn thủ ở đây không phải là quan cai trị trong trấn, phủ hành chính mà theo quan niệm dân gian ông coi sóc trấn Nghệ An về mặt tâm linh, Phủ ở đây là một Cõi trong Tứ phủ và Tam phủ trong không gian vũ trụ gồm: Cõi trời, cõi đất, cõi nước, cõi non và Phủ Giày là một địa điểm thờ các vị thánh Mẫu của bốn Cõi ấy. Theo thời gian, Ông 

Tuy nhiên, việc ông Hoàng Mười làm quan Trấn thủ ở đây không phải là quan cai trị trong trấn, phủ hành chính mà theo quan niệm dân gian ông coi sóc trấn Nghệ An về mặt tâm linh, Phủ ở đây là một Cõi trong Tứ phủ và Tam phủ trong không gian vũ trụ gồm: Cõi trời, cõi đất, cõi nước, cõi non và Phủ Giày là một địa điểm thờ các vị thánh Mẫu của bốn Cõi ấy. Theo thời gian, Ông 

Tuy không phải là một vị quan cai trị trấn phủ theo nghĩa hành chính thông thường, song trong tâm thức dân gian, Ông Hoàng Mười được xem là vị thần linh trấn giữ về mặt tâm linh cho toàn vùng Nghệ An. Khái niệm “trấn” và “phủ” ở đây không đơn thuần là đơn vị hành chính, mà thuộc về hệ thống Tứ phủ – Tam phủ trong vũ trụ quan tín ngưỡng người Việt, gồm các cõi: trời – đất – nước – non, nơi mỗi vị thánh đảm trách cai quản một phương diện của thế giới hữu hình và vô hình. “Phủ” không chỉ là địa danh, mà còn là một tầng không gian linh thiêng – nơi các bậc thánh nhân ngự trị và ban phát ân điển cho trần thế. Trong hệ thống ấy, Phủ Giày được xem là trung tâm thờ Mẫu, còn Đền Cả – nơi ông Hoàng Mười giáng ngự – là điểm tụ linh khí quan trọng của miền Trung, gắn liền với cõi nước và non thiêng Nghệ Tĩnh.

Trải qua thời gian, hình ảnh Ông Hoàng Mười được lịch sử hóa và địa phương hóa. Dưới con mắt tôn kính của người dân xứ Nghệ, ông không chỉ là một vị thánh linh mà còn mang dáng dấp của những bậc anh hùng dân tộc – những danh thần lỗi lạc từng có công bảo vệ bờ cõi, dựng xây cuộc sống ấm no cho muôn dân. Người dân tin rằng ông là hiện thân của những nhân vật lịch sử như:

  • Chiêu Trưng Đại Vương Lê Khôi – vị tướng tài kiêm văn võ song toàn thời Lê, từng hy sinh oanh liệt trong cuộc chinh phạt phương Nam;

  • Uy Minh Vương Lý Nhật Quang – con trai thứ tám của vua Lý Thái Tổ, từng làm Tri châu Nghệ An, để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong lòng nhân dân vùng đất này;

  • Hoặc Thái sư Cương Quốc Công Nguyễn Xí – danh thần trung liệt, có công lớn trong việc giúp Lê Thái Tổ đánh tan giặc Minh, phò tá bốn triều vua nhà Lê.

Chính bởi sự giao hòa giữa chất thánh và khí anh hùng ấy mà người dân xứ Nghệ tôn vinh ông là “Đức Thánh Minh”, một vị thánh Quan có uy nghi và gần gũi, cai quản miền sông nước phương Nam trong hệ thống Tứ phủ thờ Mẫu. Vì vậy, ở bất cứ nơi nào có điện thờ Mẫu, người ta đều thiết lập ban thờ Quan Hoàng Mười – biểu tượng của lòng trung nghĩa, chí nam nhi, và sự bảo hộ thiêng liêng dành cho cộng đồng.

Không chỉ thờ Quan Hoàng, Đền Cả còn gắn bó mật thiết với một nét tín ngưỡng cổ xưa: tục thờ Tam Lang – Thần Rắn. Trong tâm thức dân gian Việt Nam nói riêng và văn hóa các dân tộc nói chung, rắn là linh vật có sức ảnh hưởng mạnh mẽ, biểu trưng cho uy lực của tự nhiên và sự chuyển hóa kỳ diệu của đất trời. Đặc biệt ở những vùng sông nước, hình tượng rắn thường được gắn với Thủy thần – vị thần bảo hộ cho mùa màng và cư dân vùng hạ lưu. Nằm ngay bên dòng Sông Lam, Đền Cả là nơi hội tụ linh khí thủy mạch, nên việc phối thờ Tam Lang – Thần Rắn tại đây không chỉ có cơ sở về không gian địa lý, mà còn là sự tiếp nối mạch tín ngưỡng từ ngàn xưa của cư dân bản địa.

Bên cạnh đó, trong hệ thống phối thờ của đền còn có sự hiện diện trang trọng của Bà Lê Thị Ngọc Dung – con gái nuôi của vua Lê Lợi, một nữ anh hùng trẻ tuổi đã anh dũng hy sinh trong một trận thủy chiến chống quân Minh. Sau khi mất, bà được triều đình phong tước hiệu trang nghiêm:
“Biển Quốc Đoan Trang, Chính Thục Từ Hòa Chính Phương Nương Đại Vương” – một danh xưng thể hiện sự kính ngưỡng của triều đình lẫn dân gian trước đức hạnh, công lao và khí tiết phi thường của bà.

Tất cả những yếu tố ấy – từ Quan Hoàng Mười, Thần Rắn Tam Lang, đến Bà Ngọc Dung – đã tạo nên một tổng thể tín ngưỡng vừa linh thiêng, vừa nhân bản, kết tinh từ dòng chảy lịch sử, phong thủy, tâm linh và tình cảm dân tộc sâu đậm của xứ Nghệ. Đền Cả, vì thế, không chỉ là một điểm đến văn hóa – tâm linh, mà còn là nơi lưu giữ hồn thiêng sông núi và ký ức ngàn đời của cư dân miền Trung kiên cường.

Lễ hội Đền Cả

Tại Di tích Đền Cả – nơi thờ Quan Hoàng Mười cùng các vị thần linh thiêng khác – mỗi năm có hai lễ hội chính được tổ chức long trọng, trở thành điểm hẹn tâm linh quan trọng của người dân địa phương cũng như du khách thập phương.

Lễ hội đầu tiên diễn ra vào dịp đầu xuân, đó là Lễ hội đua thuyền truyền thống trên sông Minh. Đây không chỉ là một hoạt động văn hóa mang tính thể thao cổ truyền, mà còn là dịp người dân gửi gắm niềm tin cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, cuộc sống yên lành. Không khí lễ hội sôi động với tiếng trống, tiếng hò reo vang vọng khắp một vùng sông nước, hòa quyện cùng linh khí của đất trời ngày đầu năm.

Lễ hội quan trọng thứ hai là Lễ kỵ Quan Hoàng Mười, được tổ chức vào ngày mồng 10 tháng 10 Âm lịch hằng năm. Đây là dịp con cháu, hậu thế và du khách thập phương cùng hội tụ về đền để tưởng nhớ công lao của Ngài – một vị Quan được tôn kính không chỉ bởi sự linh thiêng, mà còn vì đức độ và sự gắn bó với dân sinh. Nghi lễ được tổ chức trang nghiêm, với đầy đủ các phần lễ truyền thống như: dâng hương, tế lễ, rước kiệu, hát chầu văn… tạo nên không gian văn hóa đậm đà bản sắc Tứ phủ.

Tổng thể các lễ hội tại Đền Cả đều được tổ chức chu đáo, tôn nghiêm, thu hút hàng ngàn lượt khách mỗi năm. Điều này thể hiện vai trò quan trọng của Đền Cả không chỉ trong đời sống tâm linh, mà còn trong mạch chảy văn hóa dân gian, tín ngưỡng cộng đồng của cư dân vùng hạ lưu sông Lam – nơi giao hòa giữa tín ngưỡng bản địa và tinh thần cố kết dân tộc.

Bạn nghĩ gì về nội dung này?

Like Like 0
Dislike Dislike 0
Love Love 0
Funny Funny 0
Angry Angry 0
Sad Sad 0
Wow Wow 0
Thầy Tâm Huệ Minh Chia sẻ kiến thức về tử vi, phong thủy, kinh dịch