Sự tích Quan Hoàng Năm - tướng quân Hoàng Công Chất
Nội dung chính [Hiện]
Hoàng Công Chất là một nhân vật lịch sử quan trọng trong văn hóa dân gian và tín ngưỡng thờ Tứ Phủ của người Việt, đặc biệt gắn liền với Quan Hoàng Năm – một trong những vị quan lớn của hệ thống Tứ Phủ. Quan Hoàng Năm, đứng sau Quan Hoàng Tư và trước Quan Hoàng Lục, là vị thần có vai trò bảo vệ, giúp đỡ chúng sinh, mang đến phước lành và giải trừ tai ương. Nhưng Hoàng Công Chất là ai, và ông có mối liên hệ như thế nào với Quan Hoàng Năm trong tín ngưỡng dân gian? Qua bài viết này, chúng ta sẽ cùng khám phá những chi tiết lịch sử và tâm linh về Hoàng Công Chất, cũng như tìm hiểu về vị trí và vai trò của Quan Hoàng Năm trong Tứ Phủ Quan Hoàng. Hy vọng rằng bài viết sẽ giải đáp phần nào thắc mắc của bạn về sự kết nối giữa hai nhân vật này, mở ra một góc nhìn mới về truyền thống thờ cúng linh thiêng của người Việt.
Sự tích Quan Hoàng Năm
Quan Hoàng Năm không giáng trần nên không có đến thờ riêng và cũng không có thần tích về ngài. Ngài có nhiệm vụ gì trên thiên cung cũng không ai được rõ và cũng không ai biết Ngài có thể phù hộ cho dương gian được những điều gì. Đó là những gì các cụ đồng cựu kể. Tuy nhiên, cũng có nhiều người cho rằng Ngài có giáng trần và hiện thân của Ngài chính là Tướng Quân Hoàng Công Chất.
Tướng quân Hoàng Công Chất
Theo Minh đô sử, năm 1739, hai tướng Hoàng Công Chất và Nguyễn Hữu Cầu đi theo Nguyễn Cừ và Nguyễn Tuyển hoạt động trong vùng Sơn Nam. Sau khi quân Nguyễn Cừ bị đánh bại, Hoàng Công Chất đã tụ tập lực lượng riêng tiếp tục hoạt động ở Sơn Nam. Quân khởi nghĩa giỏi thuỷ chiến, thường ra vào nơi cỏ rậm bùn lầy không để lại dấu tích.
Năm 1740, chúa Trịnh cử các tướng Hoàng Công Kỳ và Phạm Trần Tông mang quân đánh Hoàng Công Chất ở đất Công An nhưng không nổi.
Năm 1743, Hoàng Công Chất lại chống cự thành công cuộc bao vây của thống lĩnh Trương Nhiêu. Quân triều đình lại buộc phải rút về. Cuối năm đó, chúa Trịnh Doanh sai sứ đi chiêu an, đòi Hoàng Công Chất phải về yết kiến. Chất cự tuyệt, chiếm giữ phủ Khoái Châu (Hưng Yên). Trịnh Doanh bèn điều Đinh Văn Giai mang đại quân đi dẹp, quân khởi nghĩa thất bại nặng nề ở Đỗ Xá nhưng vẫn giữ được Khoái Châu.
Năm 1745, quân khởi nghĩa tập kích bắt và giết chết trấn thủ Sơn Nam là Hoàng Công Kỳ. Hoàng Công Chất mang quân đánh phá các huyện lân cận và phối hợp với quân khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu.
Năm 1750, Hoàng Công Chất liên kết với một thủ lĩnh khởi nghĩa giáp biên giới Vân Nam (Trung Quốc) là Thành, quân triều đình do Đinh Văn Thản tới đánh không dẹp nổi. Năm 1751, Thản chết, Lê Đình Châu được cử thay. Tháng 6 năm 1751, Lê Đình Châu đánh bại Hoàng Công Chất t và Thành. Thành bị bắt, Chất rút lên động Mãnh Thiên, châu Ninh Biên, tức là Mường Thanh (Điện Biên ngày nay), xây dựng căn cứ kháng cự lâu dài.
Tại đây quân khởi nghĩa đã lấy thành Tam Vạn do người Lự xây dựng trước đó (tiếng Thái gọi là Sam Mứn) làm đại bản doanh. Tương truyền tên gọi Tam Vạn là do trong thành có thể chứa 3 vạn quân, có thuyết nói rằng vì trong thành có 3 vạn cối giã gạo.
Sau đó nhận thấy thành Tam Vạn ở địa thế bất lợi, Công Chất xây thành Bản Phủ làm căn cứ. Hoàng Công Chất rất được lòng dân bản địa. Ông đánh tan quân giặc cướp, phát triển lực lượng ra khắp miền Tây Bắc, chia ruộng cho dân nghèo, lôi kéo những người đứng đầu ở các châu mường. Dân gian vùng này còn truyền câu hát:
“Dưới xuôi có vua
Trên này có chúa
Những miền từ Mường Puồn, châu Ét
Từ Đà Bắc, chợ Bờ
Lại phía trên từ chợ Xo, La trở xuống
Tất cả đều quy phục chúa Mường Thanh…
… Chúa thật lòng yêu dân
Chúa xây dựng bản Mường
Mọi người đều yên ổn…”
Quân khởi nghĩa của Hoàng Công Chất ngoài người Kinh còn có cả người dân tộc thiểu số. Người bản xứ gọi ông là “Then Chất” (tiếng Thái là “Thiên Chết”) với ý tôn kính. Trong “Quám tổ Mường” (sử người Thái ở Tây Bắc) gọi ông là “vua Hoàng”. Các tướng dưới quyền Công Chất nổi danh có: Bun Xao, Cầm Phẳn,.anh em Ngải, Khanh, cha con Cầm Tom, Cầm Phanh.
Quân của Hoàng Công Chất có thời gian phối hợp với lực lượng khởi nghĩa của hoàng thân Lê Duy Mật. Từ Tuần Giáo, Điện Biên trở lên thuộc phạm vi Hoàng Công Chất , phía nam từ Mộc Châu tới Văn Chấn thuộc quyền Lê Duy Mật.
Từ động Mãnh Thiên, quân khởi nghĩa đánh ra xung quanh, làm chủ 10 châu Yên Tây, ngày nay thuộc địa bàn Lai Châu và một phần Vân Nam (Trung Quốc). Cuối năm 1767, Công Chất từ Yên Tây đánh xuống chiếm châu Mộc (Sơn La), châu Mai (Hoà Bình), lại chia quân tiến xuống thượng du Thanh Hóa. Các trấn thủ Thanh Hóa, Hưng Hoá cáo cấp, chúa Trịnh Sâm huy động các tướng Trịnh Phưởng, Đinh Văn Phục, Hoàng Đình Thể mang quân đi đánh. Quân Công Chất thua chạy vào Xa Hổ và Nậm Ban.
Tháng 2 năm 1768, Trịnh Sâm cử Nguyễn Đình Huấn và Phạm Ngô Cầu mang quân đánh Mường Thanh. Lê Duy Mật nghe tin bèn điều quân cứu ứng cho Hoàng Công Chất. Đình Huấn sợ không dám tiến phải rút về. Trịnh Sâm bèn giao quân cho Đoàn Nguyễn Thục chia làm nhiều cánh đánh thẳng vào Mường Thanh. Trong lúc chiến sự căng thẳng thì Hoàng Công Chất lâm bệnh qua đời tại căn cứ.
Con ông là Hoàng Công Toản tiếp tục cầm quân chống Trịnh. Đầu năm 1769, Hoàng Công Toản đặt phục binh ở Nậm Cô đón đánh quân Trịnh nhưng thất bại. Nguyễn Phục một mặt đánh Nậm Cô, mặt khác điều quân đánh úp đốt căn cứ thành Bản Phủ. Hoàng Công Toản chạy về thấy thành mất bèn bỏ trốn, không biết sau đó kết cục ra sao. Sách Đại Nam nhất thống chí chép Hoàng Công Toản chạy sang Vân Nam, còn theo Minh đô sử thì Toản chạy vào Trấn Ninh. Cũng có nguồn cho rằng Hoàng Công Toản chạy sang Vân Nam, sau được an sáp ở Ô Lỗ Mộc Tề (Tân Cương).
Tuy cuộc khởi nghĩa thất bại, nhưng Ngài là một lãnh tụ nông dân kiệt xuất, dựng cờ khởi nghĩa chống lại triều đình Lê Trịnh cứu dân nghèo vì nghĩa lớn “Bảo Quốc an dân” diệt cường hào ác bá, lấy của giàu chia cho dân nghèo, với hoài bão xoá bỏ bất công, lập lại kỷ cương, phục hưng đất nước thống nhất giang sơn, thái bình muôn thủa. Hiện nay, trong di tích thành Bản Phủ cũ tại thôn Noọng Nhai, xã Noọng Hẹt, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên là nơi thờ chính của Hoàng Công Chất cùng 6 viên tướng nổi tiếng của Ngài.
Lễ hội đền Quan Hoàng Năm (Hoàng Công Chất)
Lễ hội đền Quan Hoàng Năm (Hoàng Công Chất) là một sự kiện văn hóa tâm linh quan trọng, được tổ chức vào hai ngày 24 và 25 tháng 2 âm lịch hàng năm. Lễ hội này không chỉ nhằm tôn vinh công đức của Quan Hoàng Năm, người có vai trò bảo vệ dân lành và mang lại bình an cho chúng sinh, mà còn gắn liền với nhân vật lịch sử Hoàng Công Chất, một anh hùng dân tộc đã có nhiều đóng góp to lớn trong việc bảo vệ đất nước.
Trong những ngày lễ hội, người dân và du khách từ khắp nơi đổ về đền để dâng hương, cầu bình an và tài lộc. Các hoạt động tín ngưỡng như rước lễ, dâng lễ vật, cũng như các nghi thức truyền thống được tổ chức trang nghiêm, mang đậm nét văn hóa dân gian. Đây cũng là dịp để tưởng nhớ công ơn của Hoàng Công Chất và kết nối với tín ngưỡng thờ Tứ Phủ, đặc biệt là sự thờ phụng Quan Hoàng Năm, người được xem là bảo hộ cho mọi sự an lành và thịnh vượng.
Hầu giá Quan Hoàng Năm
Rất rất hiếm khi Quan Hoàng Năm ngự đồng, nếu có thì khi ngự đồng Ngài mặc áo xanh thêu rồng kết uốn hành hình chữ thọ, đầu chít khăn mỏ rìu hoặc đi nét xanh, mạng chéo, đi ghệt tay và ghệt chân.
Sau khi làm lễ khai quang, Ngài ngự tọa, hiến tửu, nghe văn rồi xe giá.