Âm Dương Ngũ Hành là gì? Những điều cơ bản về Âm Dương Ngũ Hành ai cũng cần biết
Nội dung chính [Hiện]
Âm Dương Ngũ Hành là một trong những học thuyết cổ xưa và tinh hoa nhất của nền triết học phương Đông, được xây dựng từ việc quan sát và phân tích quy luật vận hành của tự nhiên. Với hai nguyên lý cốt lõi là Âm Dương - tượng trưng cho sự cân bằng và biến đổi, cùng Ngũ Hành - biểu thị sự tương sinh, tương khắc của năm yếu tố cơ bản (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), học thuyết này đã trở thành kim chỉ nam trong việc lý giải các hiện tượng thiên nhiên, xã hội và con người.
Từ việc dự đoán thời tiết, xây dựng kiến trúc, đến y học cổ truyền và đời sống tâm linh, Âm Dương Ngũ Hành luôn hiện diện như một hệ thống tri thức toàn diện và sâu sắc. Dù trải qua nhiều biến đổi qua thời gian, những giá trị cốt lõi mà học thuyết này mang lại vẫn không hề mai một, góp phần giúp con người hiểu rõ hơn về sự tương tác giữa các yếu tố trong vũ trụ và vai trò của mình trong đó. Hôm nay, học thuyết Âm Dương Ngũ Hành không chỉ mang ý nghĩa triết học mà còn là một biểu tượng của sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên.
Học thuyết âm dương ngũ hành là gì?
Âm dương ngũ hành là học thuyết triết học phương Đông về vũ trụ. Tuy cơ bản thì chỉ gói gọn trong những kiến thức về âm dương và ngũ hành nhưng lại có nhiều sự biến thiên vi diệu. Học thuyết này ứng dụng trong tử vi, kinh dịch, phong thủy, nhân tướng và rất nhiều bộ môn khác như thiên văn, lịch pháp, y học, dược học, võ học, sinh học, định chế xã hội, văn hóa, địa lý, chiêm tinh, bói toán,... Trong đó Kinh Dịch được xem là sự phát triển bậc cao, diễn giải âm dương ngũ hành một cách sâu sắc. Kinh Dịch không phải sự phỏng đoán thông thường mà thông qua tính toán khoa học, kết hợp toán học và triết học cho ra những kết quả tương ứng, tính xác suất về cuộc đời. Vì thế Kinh Dịch là bộ môn cực kì uyên thâm, cần nghiên cứu lâu dài và có chiều sâu mới nắm được.
Thế nào là âm dương?
Âm và dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gian cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng như trong từng tế bào, từng chi tiết. Âm và dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn thống nhất, trong dương có mầm mống của âm và ngược lại.
Lão Tử nói: “Trong vạn vật, không có vật nào mà không cõng âm bồng dương”.
Trong Kinh Dịch viết: “Thái cực sinh ra hai nghi, hai nghi sinh ra tứ tượng, tứ tượng sinh ra bát quái”.
Trong một cuốn sách ở lĩnh vực y thư là Hoàng Đế nội kinh lại viết: “Âm dương, đó là cái đạo của trời đất, kỷ cương của vạn vật, cha mẹ của sự biến hóa, gốc ngọn của sự sinh sát, phủ tạng của thần minh, trị bệnh phải cần ở gốc, cho nên tích luỹ dương làm trời, tích lũy âm làm đất, âm tĩnh dương động, dương sinh âm trưởng, dương sát âm tàng, dương hóa khí, âm tàng hình”.
Như vậy cho thấy, cổ nhân đặc biệt coi trọng âm dương, cho rằng âm dương xoay sở và hòa hiệp mà sinh sôi vạn vật. Đặc biệt ngay cả nguồn gốc sâu xa xuất thân của con người cũng từ trời và đất, từ âm và dương điển hình là thuyết tam tài. Ở trên Kinh Dịch nói “hai nghi sinh tứ tượng” nhưng nếu một nam một nữ kết đôi lại chỉ có người nữ sinh nở mà người nam thì không, nên mới nói từ hai không thể thành bốn mà chỉ có thể thành ba, từ đó thuyết tam tài “Thiên – Địa – Nhân” ra đời. Trời cao và xa như vậy, con người sinh ra rồi chết đi cũng đều bám trụ lấy mặt đất, bởi thế cho nên sau khi có trời (sinh tại Tý), có đất (sinh tại Sửu) thì mới có con người (sinh tại Dần).
Trời được sinh ra trước nhất, mà “Đạo lập thiên là âm và dương, đạo lập địa là cứng và mềm, đạo lập nhân là thiện và ác”, như vậy âm dương là đạo trời, là gốc của vạn vật, là đạo lý của khởi nguyên và xuyên suốt cho tới cuối cùng. Phàm là sự vật đều có hai mặt đối lập mâu thuẫn, nhưng cũng tương hỗ và nương tựa nhau mà duy trì. Nếu chỉ có trời hoặc đất thì vạn vật chẳng thể sinh sôi, con người chẳng thể tồn tại, nên mới nói “cô dương thì bất sinh, cô âm thì bất trưởng” hay “dương cô thì âm tuyệt” là vậy. Cũng từ đó mà suy rộng ra như Lão Tử viết: “Phúc là chỗ núp của họa, họa là chỗ dựa của phúc”.
Âm và dương được nhận thức như sự vận động liên tục qua sự thay đổi của tự nhiên, ngày qua thì đêm tới, hết nóng thì đến lạnh, mặt trời xuống mặt trăng lên… Tự trong âm dương đã mang sẵn mầm mống của mặt đối lập, mặt này trưởng thì mặt kia phải tiêu để duy trì trạng thái thăng bằng của sự vật, nên mới có lý “âm tiêu thì dương trưởng, dương tiêu thì âm trưởng”. Sự thắng phục, tiêu trưởng của âm dương dựa trên nguyên lý “vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản”, khi dương lên tới đỉnh điểm thì sinh ra thiếu âm như mùa hạ qua đi thì thu tới, âm xuống tới cùng cực thì thiếu dương ra đời như hết đông lại tới xuân vậy.
Âm dương được quy về mọi mặt của đời sống như phương vị, khí dương lấy Nam làm phương vị, lấy Bắc làm nơi tàng thế, khí âm lấy Bắc làm phương vị, lấy Nam là nơi tiềm phục. Quy về phúc họa, lành dữ, tốt xấu, đúng sai, nặng nhẹ, chìm nổi, sáng tối….. để thấy cổ nhân tin rằng âm dương là khởi nguyên của vạn vật, sự đối lập nhưng không tách rời, sự xâm nhập nhưng luân chuyển điều hòa là nguyên nhân đầu tiên, là lý khởi sinh của muôn vật. Và ý tưởng lý giải cho bản thể của mọi sự vật, sự việc đưa con người đến với ngũ hành.
Thế nào là Ngũ hành?
Theo thuyết duy vật cổ đại, tất cả mọi vật chất cụ thể được tạo nên trong thế giới này đều do năm yếu tố ban đầu là nước, lửa, đất, cây cỏ và kim loại. Tức năm hành thuỷ, hoả, thổ, mộc, kim.
Trong nỗ lực quan sát bầu trời, vào ban đêm có thể thấy hằng hà sa số vì sao nhưng về cơ bản sẽ chỉ thấy những ngôi sao trong thái dương hệ là di chuyển rõ rệt nhất. Trong đó, mặt trăng và mặt trời quá nổi bật không nói tới, thì quan sát được bằng mắt thường chỉ thấy được 5 hành tinh là Thủy tinh (Mercury), Kim tinh (Venus), Hỏa tinh (Mars), Mộc tinh (Jupiter) và Thổ tinh (Saturn), 3 hành tinh còn lại cần có công cụ quan sát hỗ trợ là Diêm vương tinh (uranus), Hải vương tinh (Neptune) và Thiên vương tinh (Pluto). Nếu ai cũng thích xem Thủy thủ mặt trăng hay là quan tâm tới chiêm tinh /thiên văn phương Tây thì sẽ không thấy xa lạ gì với những hành tinh này. Quay trở lại với 5 hành tinh quan sát được bằng mắt thường, chúng ta thấy rằng cổ nhân đếm thấy vừa xinh 5 hành tinh chuyển động liên tục vừa khéo ứng với ngũ hành. Bao gồm mặt trăng, mặt trời và trái đất cũng vừa khéo ứng với 8 quẻ đơn của Dịch lý. Như vậy trên trời hay dưới đất cũng đều có ngũ hành vậy.
Chúng ta cần lưu ý rằng, cổ nhân không có những công cụ tân tiến như chúng ta hiện nay, mọi kết luận đều dựa trên góc nhìn sơ khai rồi tự tạo nên hệ quy chiếu riêng mà cho tới nay vẫn còn nguyên giá trị cũng như tính ứng dụng rất sát với đời sống con người. Vậy nên khi tìm hiểu cổ học, chúng ta không nên đem những kiến thức hiện đại để vặn vẹo và phủ nhận kiến thức của cổ nhân, điều đó không khác nào chúng ta đọc sử rồi hỏi sao những trận chiến thời cổ đại không đem súng ra mà bắn nhau trên chiến trường thay cho gươm đao, cung tên vậy.
Sau đó để quan sát sự vận động của 5 hành tinh quan sát được bằng mắt thường, vào những đêm tối trời không trăng, lấy sao Bắc Đẩu làm chuẩn, họ chấm tọa độ (gần đúng) của các hành tinh. Sau không biết bao nhiêu thời gian, họ tìm ra được rằng cứ gần 60 năm thì các hành tinh lại quay trở về vị trí cũ, vậy nên chúng ta có lục thập hoa giáp, sau 60 năm lại trở về với năm Giáp Tý. Và tại sao lại là Giáp Tý đứng đầu là bởi, khoảng những ngày cuối tháng Chạp của năm Quý Hợi và đầu năm Giáp Tý, các hành tinh nằm hội tụ lại và chung một hướng trước khi tiếp tục chuyển động. Trong đó Mộc tinh có chu kỳ chuyển động gần đúng 12 năm đều đặn, thời gian quan sát không mất nhiều thời gian như Thổ tinh (30 năm) cũng không quá ngắn như Hỏa tinh, đồng thời trong quá trình quan sát thấy Mộc tinh ảnh hưởng nhiều tới trái đất và mùa màng nên cổ nhân đặc biệt chú trọng Mộc tinh. Từ đó lấy chu trình 12 năm của Mộc tinh làm 12 địa chi như chúng ta biết bây giờ. Còn 10 can dựa trên ngũ hành phối kết âm dương do Hỏa tinh có chu kỳ gần 2 năm nên cứ mỗi năm lại thấy Hỏa tinh ở hướng đối diện, phù hợp với định luật âm dương nên chúng ta có 1 năm dương rồi lại 1 năm âm…. Kết hợp thêm rất nhiều yếu tố khác như tứ mùa, mặt trăng để định tháng, mặt trời để định giờ và ngày… để hoàn thiện hệ thống âm lịch hỗ trợ cho việc trồng trọt, phân định mùa màng.
Quý vị có thể xem thêm bài viết: Lý giải về sự kết hợp can chi để hiểu hơn.
Đứng về mặt thiên thời, chương “Hồng phạm” trong Kinh Thư cho rằng có cái gọi là ngữ “kỷ” như một là năm, hai là tháng, ba là ngày, bốn là các vì sao, năm là lịch số. Về hiện tượng xã hội và hiện tượng tinh thần của con người, “Hồng Phạm” đề xuất “ngũ sự” và “ngũ phúc”. Ngũ sự như một là tướng mạo, hai là lời nói, ba là trông, bốn là nghe, năm là suy nghĩ. Ngũ phúc như một là thọ, hai là phúc, ba là thông minh, bốn là hiếu đức, năm là khảo trung mệnh. Qua đó nhận thấy “Hồng Phạm” dùng ngũ hành để liên hệ hiện tượng tự nhiên với hiện tượng xã hội, nhằm thuyết minh thế giới là một chỉnh thể thống nhất, có trật tự. Trong tư tưởng đó có chứa đựng nhân tố duy vật, khẳng định ngũ hành là cơ sở của thế giới, tính chất của sự vật đều thể hiện tính năng của năm loại vật chất trong ngũ hành. Và trong suốt mấy ngàn năm phong kiến, ngũ hành âm dương được dùng để lý giải cho vạn vật giữa đất trời và nhân sinh.
Âm dương ngũ hành không chỉ được tìm hiểu và diễn giải sâu rộng mà còn thâm nhập và được ứng dụng trong nhiều bộ môn huyền học Á Đông, từ đó nổi bật lên như là lý tính đặc trưng của triết học phương Đông. Trong tất cả các bộ môn như Thái Ất, Kinh Dịch, Lục Nhâm, Kỳ Môn Độn Giáp, Phong Thủy, Bát Tự và đặc biệt Tử vi đều thấm nhuần âm dương ngũ hành. Đâu đâu cũng thấy âm dương ngũ hành, từ can chi, quẻ đơn quẻ kép, các cung thiên bàn, chính tinh, phụ tinh… Âm dương, ngũ hành giống như nền tảng mà nếu các bạn nhuần nhuyễn và nắm vững, tự khắc con đường nghiên cứu huyền học Á Đông sẽ thênh thang hơn rất nhiều.
Âm dương ngũ hành
Thuyết Âm Dương Ngũ Hành có nguồn gốc từ Trung Hoa xưa, lần đầu tiên được tìm thấy trong sách “Quốc ngữ”. Theo đó, tài liệu này nhìn nhận rằng tất cả vật chất trong vũ trụ đều mang hai dạng năng lượng: Âm và Dương. Dương khí đại điện cho nguồn năng lượng nóng (nhiệt tình, hân hoan, phấn kích, mạnh mẽ…), âm khí đại diện cho nguồn năng lượng lạnh (lãnh đạm, buồn bã, yếu đuối…). Sự tác động qua lại giữa hai nguồn năng lượng này duy trì trạng thái cân bằng của vạn vật trong vũ trụ.
Việc vận dụng thuyết Âm Dương vào trong đời sống đánh dấu một bước phát triển mới trong tư duy nhân loại của khoa học phương Đông, nhằm giải thoát con người khỏi sự khống chế của khái niệm thượng đề, quỷ thần. Vì vậy, việc thấu đạt học thuyết Âm Dương Ngũ Thần là điều kiện tiên quyết để lỹ giải màu sắc của triết học phương Đông.
Ngày nay, thuyết Âm Dương Ngũ Hành đã đi vào đời sống dân gian, trở thành kim chỉ nam trong tín ngưỡng và văn hóa của người Á châu, trong đó có Việt Nam. Việc vận dụng tốt Âm Dương Ngũ Hành vào các hoạt động của đời sống như xây nhà, cưới hỏi, mua bán…đem đến nhiều lợi ích thiết thực cho người dân.
Âm dương ngũ hành có nguồn gốc từ đâu?
Hà Đồ là nguồn gốc của học thuyết âm dương ngũ hành, dần dần được giải mã, bổ sung và phát triển theo chiều dài mấy ngàn năm lịch sử. Người xưa truyền rằng Phục Hy – vị vua thần thoại trong truyền thuyết Trung Hoa khi đi tuần thú phương Nam, qua sông Hoàng Hà bỗng thấy một con Long Mã trên lưng có những chấm đen trắng hiện lên. Khi về Ngài nhớ lại và vẽ ra giấy bản đồ trên lưng con Long Mã, thay các dấu chấm đen trắng bằng ký hiệu 10 số đếm, xếp theo hai vòng trong ngoài tương ứng với 4 phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Đây là bản Hà Đồ đầu tiên trong lịch sử.
Hà Đồ cũng là một trong 2 yếu tố cơ bản của phong thủy Huyền Không.
Theo đó, 10 con số được chia thành 2 nhóm đối xứng với nhau, một bên là âm, một bên là dương, một bên là sinh, một bên là tử; một bên là trời, một bên là đất. Số Dương, số Trời, số Cơ là 1, 3, 5, 7, 9, tương ứng với các chấm trắng trên lưng con Long Mã. Số Âm, số Đất, số Ngẫu là 2, 4, 6, 8, 10 tương ứng với các chấm đen trên lưng con Long Mã.
Về ngũ hành, Hà Đồ thông qua vị trí của 5 con số Sinh đại diện cho 5 yếu tố vận động trong vũ trụ: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Mỗi con số được cấu thành từ một số Trời và một số Đất, âm dương hài hòa. Số Trời 1 sinh Thủy, thành số Đất 6. Số Đất 2 sinh Hỏa, thành số Trời 7. Số Trời 3 sinh Mộc, thành số Đất 8. Số Đất 4 sinh Kim, thành số Trời 9. Số Trời 5 sinh Thổ, thành số Đất 10.
Tức là 1 và 6 hành Thủy, ứng với phương Bắc. 2 và 7 hành Hỏa ứng với phương Nam. 3 và 8 hành Mộc ứng với phương Đông. 4 và 9 hành Kim ứng với phương Tây. 5 và 10 hành Thổ ở trung tâm.
Ngũ hành cũng tuân thủ âm dương tương khắc và âm dương tương sinh. Đây là tinh thần cơ bản nhất của thuyết ngũ hành với nguyên tắc kề cận thì sinh sôi luân chuyển mãi không ngừng, cách nhau thì khắc chế luân lưu. Đó chính là sự vận động, biến thiên, chuyển dời của vũ trụ, tạo thành vòng tròn của sự sống và cái chết bất diệt.
Ngũ hành tương sinh: Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim. Ngũ hành tương khắc: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim.
Con người hiểu và nghiên cứu về âm dương ngũ hành cốt lõi nhất không phải để đoán mệnh hay cải mệnh mà cao hơn chính là thuận theo mệnh. Tất cả các công trình về thế giới quan, về triết học phương Đông, về học thuyết âm dương ngũ hành đều là cách để tiếp cận với cái nguyên thủy, hoang sơ, tìm ra quy luật vận động và phát triển tự nhiên nhất. Từ đó hình thành nhân sinh quan phù hợp để tồn tại và phát triển lâu dài, hiểu về tự nhiên và thuận theo tự nhiên một cách khoa học.
Phong thuỷ ngũ hành
Một trong những ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ Hành là phong thủy. Quy luật vận động năng lượng của sự sống xoay quanh 5 Hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Đặc trưng của ngũ hành
Ngũ Hành dùng để chỉ 5 thuộc tính Kim, Mộc Thủy, Hỏa, Thổ. Trong phong thủy ngũ hành, mọi vật đều được gắn các thuộc tính này để lý giải về các nguyên lý năng lượng. Sự tương tác qua lại giữa chúng tạo nên sự cân bằng của vũ trụ. Sự tương tác này được diễn giải bằng các quy luật ngũ hành.
Các quy luật của ngũ hành
Sự hoạt động của ngũ hành được miêu tả bằng các quy luật ngũ hành.
Quy luật tương sinh
Tương sinh trong ngũ hành được dùng để chỉ mối quan hệ hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Quy luật tương sinh trong ngũ hành được khái quát: Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim.
Mỗi một Hành đều có quan hệ với 2 hành khác, xoay vòng lặp lại tạo thành một vòng tròn khép kín. Mối quan hệ hai chiều được diễn tả: Cái-Sinh-Nó và Cái-Nó-Sinh. Sự hỗ trợ lẫn nhau rất dễ suy đoán. Chẳng hạn Thủy sinh Mộc vì nước tưới giúp cây tươi tốt. Mộc sinh Hỏa vì gỗ là nguyên liệu giúp bén lửa. Cứ thế mà vòng tròn tương sinh được suy ra từ đó.
Quy luật tương khắc
Mối quan hệ tương khắc giữa các ngũ hành ra đời nhằm giữ thế cân bằng với mối quan hệ tương sinh. Tương khắc trong âm dương ngũ hành chỉ mối quan hệ khắc chế lẫn nhau. Cụ thể được khái quát: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim…
Tương tự mối quan hệ tương sinh, mỗi một hành đều liên hệ với 2 hành khác thông qua quan hệ khắc chế: Cái-Nó-Khắc và Cái-Khắc-Nó. Sự khắc chế được suy ra theo lẽ tự nhiên. Ví dụ Thủy khắc Hỏa vì nước sẽ dập tắt lửa. Hỏa khắc Kim vì lửa có thể nung chảy kim loại.
Quy luật chế hoá
Quy luật chế hóa trong âm dương ngũ hành là một cơ chế vận hành cân bằng, trong đó các yếu tố tương sinh và tương khắc phối hợp hài hòa để duy trì sự ổn định trong vũ trụ. Quy luật này nhấn mạnh rằng sự khắc chế không nhằm mục đích tiêu diệt, mà để điều chỉnh và tạo điều kiện cho các yếu tố khác phát triển, từ đó đảm bảo sự hài hòa tổng thể.
Hãy xem xét mối quan hệ giữa ba Hành: Hỏa, Kim và Thủy. Theo quy luật tương sinh, tương khắc, Hỏa khắc Kim, Kim sinh Thủy, và Thủy khắc Hỏa. Khi Hỏa khắc Kim, nếu mức độ khắc chế vượt quá giới hạn, Kim sẽ bị áp lực mạnh mẽ và kích thích sinh ra Thủy. Thủy sau đó sẽ khắc chế lại Hỏa, tạo ra một vòng tuần hoàn tự điều chỉnh. Nhờ vậy, năng lượng giữa ba Hành không bị mất cân bằng, mà luôn vận động theo hướng duy trì sự ổn định.
Quy luật chế hóa cho thấy tầm quan trọng của sự điều hòa giữa các yếu tố, giúp chúng ta hiểu rằng mọi xung đột đều có thể dẫn đến sự cân bằng mới. Đây là nền tảng để duy trì sự bền vững và phát triển của tự nhiên, xã hội và con người.
Ngũ hành phản sinh
Ngũ hành phản sinh là một quy luật quan trọng trong học thuyết Ngũ Hành, diễn giải rằng sự tương sinh không phải lúc nào cũng mang lại kết quả tích cực nếu vượt quá mức cần thiết. Điều này có thể được minh họa sinh động qua hình ảnh chăm sóc một em bé.
Để em bé khỏe mạnh và lớn lên, chúng ta cần cung cấp thức ăn, nước uống đầy đủ. Tuy nhiên, nếu quá chăm chút, cho ăn uống quá nhiều mà không kiểm soát, cơ thể em bé sẽ không thể hấp thụ hết, dẫn đến bệnh tật, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng. Trong mối quan hệ Ngũ Hành, hãy hình dung em bé là Hành Kim và thức ăn, nước uống là Hành Thổ. Theo quy luật tương sinh, Thổ sinh Kim, nghĩa là đất đai tích tụ sẽ tạo nên kim loại. Nhưng nếu lượng Thổ quá lớn, nó sẽ chôn vùi và làm mất đi bản chất của Kim.
Quy luật phản sinh nhắc nhở chúng ta rằng sự cân bằng là yếu tố cốt lõi trong mọi mối quan hệ. Dù trong tự nhiên, đời sống hay phong thủy, việc lạm dụng hay quá mức một yếu tố sẽ dễ dàng phá vỡ sự hài hòa, dẫn đến tác động tiêu cực.
Ngũ hành phản khắc
Ngũ hành phản khắc được diễn giải rằng khi Hành A khắc Hành B, nhưng năng lượng của Hành B quá lớn khiến Hành A khắc chế không được, lại còn bị thương tổn gây nên sự phản khắc.
Phong thuỷ bát quái
Phong thủy Bát Quái nổi bật với Bát Quái Đồ – một biểu tượng quen thuộc trong việc áp dụng phong thủy vào đời sống. Đây là công cụ mạnh mẽ giúp khảo sát và phân tích năng lượng trong một không gian, từ nhà ở, văn phòng làm việc đến các khu vực công cộng. Bát Quái Đồ được xây dựng dựa trên tám quẻ cơ bản trong Kinh Dịch, mỗi quẻ đại diện cho một phương diện khác nhau của đời sống, như tài lộc, sức khỏe, gia đình, danh vọng, sự nghiệp, và các mối quan hệ.
Khi sử dụng Bát Quái Đồ, gia chủ có thể xác định được luồng năng lượng nào đang hiện diện tại từng khu vực trong không gian sống, liệu năng lượng đó có tương hợp hay đối nghịch với bản mệnh của mình. Từ đó, gia chủ có thể chủ động điều chỉnh, sắp xếp nội thất, sử dụng vật phẩm phong thủy hoặc thay đổi bố cục không gian để cân bằng và tăng cường các yếu tố tích cực.
Sự chính xác và ứng dụng đa dạng của Bát Quái Đồ khiến nó trở thành một trong những công cụ không thể thiếu trong việc tối ưu hóa phong thủy, góp phần mang lại một cuộc sống hài hòa, thịnh vượng và an lành cho gia chủ.