Chầu Bà Đệ Nhị Thượng Ngàn là ai? Sự tích về Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn?
Nội dung chính [Hiện]
Sự tích về Chầu Bà Đệ Nhị Thượng Ngàn luôn là một câu chuyện hấp dẫn và đầy sức hút đối với nhiều người muốn khám phá và tìm hiểu về vị thánh linh này. Chuyện về Bà Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn là một phần quan trọng của văn hóa và tín ngưỡng dân gian Việt Nam, thể hiện tinh thần kiên trung và lòng tin vào những thần linh bảo vệ của người dân. Bài viết sau đây sẽ đưa bạn vào cuộc hành trình tìm hiểu chi tiết hơn về vị Chầu Bà Đệ Nhị Thượng Ngàn cũng như những bản văn được sử dụng trong giá hầu.
Chầu Bà Đệ Nhị Thượng Ngàn là ai?
Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn, hay còn gọi là Chầu Đệ Nhị, là một thần linh quan trọng trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, được xếp vào hàng Tứ Phủ và đứng thứ hai chỉ sau Chầu Đệ Nhất. Cô được coi là hóa thân của Chầu Đệ Nhị và thường được xem là có quyền lực cao nhất trong tứ cung của phủ Sơn Trang.
Với vị thế quan trọng trong tứ cung, Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn thường được tôn thờ và thờ cúng tại các vùng núi. Cô đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và đảm bảo cuộc sống an lành cho người dân. Tín đồ tin rằng việc thờ cúng Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn sẽ mang lại sự may mắn, bảo vệ khỏi các hiểm nguy và đem lại hòa bình cho cộng đồng, nhân dân.
Sự tích về Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn.
Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Nhị và cũng là Thiên Thai Tiên Nữ, con gái của vua Đế Thích, ngự trên sơn lâm thượng ngàn, chiếm quyền lực trên 81 cửa ngàn đất Nam Việt. Có sự tích kể rằng, bà giáng sinh vào dòng họ quý tộc Lê ở Thác Cái Thác Con, Hà Giang, và sau đó trở thành Bà Chúa Thượng Ngàn.
Trong hàng Tứ Phủ Chầu Bà, Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn là vị chầu bà có quyền lực tối cao tại tòa Sơn Trang, nơi mà đa phần các vị chầu bà đều thường được tưởng tượng là ngự trên sơn trang. Do đó, bà được coi là vị có quyền cao nhất trong hàng chầu, chỉ sau Chầu Đệ Nhất.
Tuy nhiên trên thực tế hiện có 3 sự tích khác nhau về Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn gồm
Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn - người con gái Lê Thị lấy chồng họ Hà
Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn, còn gọi là công chúa Đông Quang, hay theo tên thật Lê Thị Kiểm, là một người phụ nữ có cuộc đời đầy nghị lực và tinh thần hy sinh. Bà là vợ của Hà Văn Thiên, một người dân tộc Tày sống ở Đông Cuông, vùng nằm trong lãnh thổ Đông Cương và các vùng lân cận, mà triều đình đã giao cho chồng bà quản lý. Cuộc sống của bà và chồng bắt đầu vào thời kỳ khó khăn, khi phải đối mặt với cuộc chiến chống lại quân Mông Nguyên.
Họ đã có một người con trai và sau khi ông chồng của bà qua đời, bà Kiểm và con trai tiếp tục ở lại Đông Cuông. Bà đã đặt hết lòng mình vào việc giúp đỡ dân làng trong việc khai khẩn và xây dựng làng xóm, giảng dạy kiến thức cho dân, cũng như trị bệnh và cứu giúp người dân trong khu vực.
Nhờ những đóng góp và sự linh thiêng của bà Kiểm, cư dân trong vùng đã quyết định xây dựng miếu thờ mẹ và con bà, nơi được đặt ở tả ngạn, còn phu quân của bà được tôn thờ tại bên kia sông Hồng, ở địa điểm Ghềnh Ngai. Chuyện về Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn là một câu chuyện về sự hy sinh và lòng kiên trung, đã truyền tụng và tôn thờ qua nhiều thế hệ và hiện vẫn còn sống đọng trong tâm hồn của người dân Việt Nam.
Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn theo ghi chép của Bách Thần Lục
Theo Bách Thần Lục, câu chuyện về Chùa Đệ Nhị thường được đồng nhất với câu chuyện về Mẫu Thượng Ngàn, người được coi là thần linh linh thiêng nhất ở khu vực Bắc Lệ, Lạng Sơn. Mẫu Thượng Ngàn có tên thật là công chúa La Bình, và cô là con gái của Sơn Tinh. Mẫu Thượng Ngàn ban đầu là một Thiên Thai Tiên Nữ, và là con của vua Đế Thích, người đảm trách quyền lực trên 81.000 cửa ải ở khu vực phương Nam.
Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn theo ghi chép của Lê Qúy Đôn
Theo sử sách, câu chuyện về nguồn gốc của Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn được viết bởi Lê Qúy Đôn như sau:
"Văn Châu, một ngư dân từ xã Kính Chủ, huyện Thanh Ba (nay thuộc Lâm Thao, Phú Thọ) và là học trò của Hiệu như Nguyễn Đình Kính. Trong thời gian niên hiệu Bảo Thái (1720 - 1729), ông đi buôn ở vùng Đông Quang (nay thuộc huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái). Tại bến sông này, có một miếu thờ Đông Quang Công Chúa, mà vẫn nổi tiếng là nơi linh thiêng. Truyền thống kể rằng Công Chúa này là vợ của Đại vương miếu Ngọc Tháp, thuộc huyện Sơn Vi (sau này là huyện Lâm Thao).
Một ngày, khi trời đã tối, Văn Châu thấy một người từ trong miếu Đông Quang đi ra gặp ông tại nơi thuyền đỗ. Người đó gọi tên ông và nói rằng: 'Khi thuyền của ngươi quay lại gần miếu Ngọc Tháp, xin vui lòng truyền lời tới Đại vương rằng Công Chúa đã sinh con trai, và người muốn Đại vương biết điều này.' Sau khi nói xong, người đó biến mất.
Đường thủy từ Đông Quang đến Ngọc Tháp thường mất ba hoặc bốn ngày, nhưng vào ngày đó, Văn Châu bắt đầu vào buổi sáng và đến Ngọc Tháp vào buổi chiều. Tại đây, nơi núi đá nổi lên như hình ruột ốc gần bến sông, có một miếu trên núi, và cạnh miếu có một ngôi chùa gọi là Lăng Nghiêm. Theo lời hướng dẫn của người kỳ lạ ấy, Văn Châu đứng ở đầu thuyền và truyền lời như đã được hướng dẫn, sau đó anh ta rời đi."
Hầu Giá Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn
Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn là một vị thánh đặc biệt trong hệ thống Tứ phủ thờ Bà, và người ta tôn vinh và thờ chầu với tư cách là người giáng đồng cho tất cả các hàng chầu, bất kể là đồng tân hay đồng cựu. Khi Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn giáng đồng, cô thường mặc áo màu xanh (thường là xanh lá cây) và cầm theo quạt khai cuông. Chầu sẽ thực hiện múa mồi trong lễ trình giầu. Chầu Đệ Nhị thường có dịp ngự đồng trong các đàn mở phủ, bao gồm cả việc thờ Chúa Sơn Trang (thậm chí cả khi không đủ bốn tòa Sơn Trang mà chỉ có một tòa xanh).
Một trong những dịp đặc biệt khi Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn ngự đồng là vào lễ Thượng Nguyên hàng năm, và trong những ngày tiệc khác. Trong lễ trình giầu, những người đệ tử đã có địa vị cụ thể và đã lập bát hương bản mệnh sẽ ngồi ở giữa chiếu, đội áo đầu khăn màu đỏ, và đội trên mình mâm giầu trình. Bộ mâm giầu này thường bao gồm các loại thảo dược như cau, lá trầu, vỏ thuốc, thuốc lào, thuốc lá, và nhiều thứ khác. Trong lễ trình giầu, họ phải chuẩn bị một bữa tiệc vô cùng tráng lệ, bao gồm khoảng 13.000 (hoặc thường là 15.000) món ăn để hiến tặng cho Chúa Sơn Trang cùng với 12 cung nữ làm chứng. Khi diễn ra lễ trình giầu, người ngồi đội mâm giầu trình cầm theo một bó mồi hoặc hương đã đốt cháy, và sau đó, họ mở cửa để chứng kiến bữa tiệc tráng lệ. Nếu họ nhận được tiền âm và tiền dương tương ứng (bằng đồng xu, có một đồng tiền xấp và một đồng tiền ngửa), điều này thể hiện rằng người ngồi đội mâm giầu đã được chứng thực bởi Thiên Đàng và các thánh. Khi đó, họ tạ ơn và rời khỏi nơi lễ trình giầu để nhường chỗ cho người khác tham gia lễ trình giầu tiếp theo.
Văn Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn
Cũng như Chầu Đệ Nhất, Chầu Đệ Nhị được thờ phụng ở bất cứ nơi nào có rừng núi có Mẫu Đệ Nhị ngự. Nhưng khi thỉnh chầu, người ta thường hay nghĩ tới Đền Đông Cuông là nơi in dấu rõ nhất ở tỉnh Yên Bái.
Vậy nên khi thỉnh chầu, văn hay hát rằng một trong các bản dưới đây:
Bản văn số 1
“Dâng văn tiên chúa thượng ngàn
Đông Cuông tuần quán giáng đàn chứng đây
Trên ngày gió cuốn rung cây
Dưới khe cá lội chim bay về ngàn
Canh khuya nguyệt lặn sao tàn
Chiếc thoi bán nguyệt khoan khoan chèo vào
Gập ghềnh quán thấp lầu cao
Khi ra núi đỏ lúc nào ngàn xanh
Thượng ngàn Đệ Nhị tối linh
Ngôi cao công chúa quyền hành núi non
Anh linh đã khắp tiếng đồn
Sấm ran mặt bể mưa tuôn đầu ghềnh
Da ngà mặt phượng long lanh
Mặt hoa tươi tốt tóc xanh rườm rà
Nhị hồng tuyết điểm mầu da
Cổ tay tựa ngà đầu vấn tóc mai
Vốn dòng công chúa Thiên Thai
Giáng sinh hạ giới quản cải Thượng Ngàn
Quản cai các lũng các lang
Sơn tinh cầm thú hổ lang khấu đầu
Khắp hoà tam thập lục châu
Chín từng khe suối một bầu tiêu dao
Dong chơi ngàn quế ngàn đào
Khi ra thác cái lúc vào thác con
Chim kêu vượn hót véo von
Chớp bể đồi đoạn mưa nguồn từng cơn
Khi nương gió lúc lại thác gièm
Khi bẻ cành quế khi vin cành hồng
Vui chơi nước nhược non bồng
Phố Cát đền Sòng sông Cả sông Thao
Lân rờn Phượng múa thấp cao
Ngày mây thấp thoáng trăng sao lững lờ
Nón buồm vai quẩy lẵng hoa
Đền khi phủ nọ vào ra chơi bời
Khi thanh vắng lúc lại êm trời
Ngồi trên đỉnh núi ghẹo người Hằng Nga
Tang tính tình thôi đọc lại ca
Bẻ bai giọng Xá ê a giọng Mường
Tiếng Kinh tiếng Mán tỏ tường
Lục châu quan hoả lúi lường líu lo
Dong chơi bát cảnh ngũ hồ
Đua chèo bẻ lái hò dô lại về
Khi chơi ngàn mái ngàn ngàn me
Ngàn giang ngàn nứa trúc tre ngàn vầu
Đôi cô Thổ Mán theo hầu
Cô xe chỉ thắm cô xâu hạt vàng
Sơn Lâm dọn quán bán hàng
Non xanh đủng đỉnh tuyết sương gieo hò
Khăn xanh áo lục nhởn nhơ
Khi vào ba dội lúc vô đường chèo
Môi son má phấn mỹ miều
Miệng cười hoa nở mọi chiều mọi hay
Đèn trăng quạt gió màn mây
Bóng thông che tán bóng mai tựa hình
Đi suối lúc lại về ghềnh
Đua chèo tiếng phách tiếng sênh reo hò
Chè tàu ba chén tính ưa
Thanh bông hoa quả ngự thừa lại ban
Yêu ai tài lộc chầu ban
Ghét ai chầu quở khôn ngoan được nào
Xem trong sự tích tân la
Vậy nên phúc đẳng hà sa vô cùng
Đệ tử dốc một lòng thành kính
Dâng bản văn trình chầu ngự giáng lâm
Mời chầu giáng phúc từ trung
Khuông phù đệ tử tăng long thọ trường”
Bản văn số 2
"Đêm Đông Cuông sương rơi lác đác
Nghe tiếng gió rừng xào sạc canh khuya
Dế kêu đồi núi vắng tanh
Xa nghe xào sạc năm canh gió gào
Con đường mòn dẫn lối vào hang động
Chầu giáng sinh trên đất tổ Đông Cuông
Năm thân ngày mão giờ dần
Rủ nhau chiêm bái trên đền Đông Cuông
Dọc sông hồng rì rào nước chảy
Xuôi theo dòng cho tới đền Mậu A
Con tìm vào đền mẫu Đông Cuông
Con sông uốn khúc chảy quanh bản làng
Đền thờ Chầu lều tranh mái lá
Cột chạm rồng hóa đá rêu phong
Con dâng văn tiên Thánh thượng ngàn.
Dâng văn tiên Thánh thượng ngàn
Đông Cuông tuần quán giáng đàn chứng đây
Trên ngày gió cuốn rung cây
Dưới khe cá lội chim bay về ngàn
Canh khuya nguyệt lặn sao tàn
Chiếc thoi bán nguyệt khoan khoan chèo vào
Gập ghềnh quán thấp lầu cao
Khi ra núi đỏ lúc nào ngàn xanh
Thượng ngàn Đệ Nhị tối linh
Ngôi cao công chúa quyền hành núi non
Anh linh đã khắp tiếng đồn
Sấm ran mặt bể mưa tuôn đầu ghềnh
Da ngà mặt phượng long lanh
Mặt hoa tươi tốt tóc xanh rườm rà
Nhị hồng tuyết điểm mầu da
Cổ tay tựa ngà đầu vấn tóc mai
Vốn dòng công chúa Thiên Thai
Giáng sinh hạ giới quản cải Thượng Ngàn
Quản cai các lũng các lang
Sơn tinh cầm thú hổ lang khấu đầu
Khắp hoà tam thập lục châu
Chín từng khe suối một bầu tiêu dao
Dong chơi ngàn quế ngàn đào
Khi ra thác cái lúc vào thác con
Chim kêu vượn hót véo von
Chớp bể đồi đoạn mưa nguồn từng cơn
Khi nương gió lúc lại thác gièm
Khi bẻ cành quế khi vin cành hồng
Vui chơi nước nhược non bồng
Phố Cát đền Sòng sông Cả sông Thao
Lân rờn Phượng múa thấp cao
Ngày mây thấp thoáng trăng sao lững lờ
Nón buồm vai quẩy lẵng hoa
Đền khi phủ nọ vào ra chơi bời
Khi thanh vắng lúc lại êm trời
Ngồi trên đỉnh núi ghẹo người Hằng Nga
Tang tính tình thôi đọc lại ca
Bẻ bai giọng Xá ê a giọng Mường
Tiếng Kinh tiếng Mán tỏ tường
Lục châu quan hoả lúi lường líu lo
Dong chơi bát cảnh ngũ hồ
Đua chèo bẻ lái hò dô lại về
Khi chơi ngàn mái ngàn ngàn me
Ngàn giang ngàn nứa trúc tre ngàn vầu
Đôi cô Thổ Mán theo hầu
Cô xe chỉ thắm cô xâu hạt vàng
Sơn Lâm dọn quán bán hàng
Non xanh đủng đỉnh tuyết sương gieo hò
Khăn xanh áo lục nhởn nhơ
Khi vào ba dội lúc vô đường chèo
Môi son má phấn mỹ miều
Miệng cười hoa nở mọi chiều mọi hay
Đèn trăng quạt gió màn mây
Bóng thông che tán bóng mai tựa hình
Đi suối lúc lại về ghềnh
Đua chèo tiếng phách tiếng sênh reo hò
Chè tàu ba chén tính ưa
Thanh bông hoa quả ngự thừa lại ban
Yêu ai tài lộc chầu ban
Ghét ai chầu quở khôn ngoan được nào
Xem trong sự tích tân la
Vậy nên phúc đẳng hà sa vô cùng
Đệ tử dốc một lòng thành kính
Dâng bản văn trình chầu ngự giáng lâm
Mời chầu giáng phúc từ trung
Khuông phù đệ tử tăng long thọ trường"
Bản văn số 3
"Chúa tiên loan giá phượng đình
Hộ phù luyện phép cứu sinh cho đời
Đấng anh linh nơi nơi ngưỡng phục
Chúa ban hành ngũ phúc cho dân
Tối tuần tối tú anh linh
Chúa thường giáng ngự trăng thanh bốn bề
Cảnh non xanh đi về hoa đón
Núi trập trùng vời vợi ngôi cao
Đông Cuông Tuần Quán ra vào
Lắng nghe suối chảy thấp cao đổ nguồn
Dạo bốn phương qua đền Trái Hút
Qua Bảo Hà thánh thót nhạc rung
Phố Lu dạo cảnh công đồng
Lao Cai ,Phố Mới ,Đầm Hồng dạo chơi
Mẫu Đông Cuông soi đời vời vợi
Tấc lòng thành vạn tội Mẫu Thương
Lòng thành thắp một tuần hương
Có Chầu Tuần Quán Đông Cuông giáng thề
Lầu gác khuê áo đào ngắn vạt
Vẻ long lanh kiềng bạc trâm cài
Anh linh dậy bốn phương trời
Có Chầu Tuần Quán giáng nơi điện tiền
Chầu về lai giáng bản đền
Khuông phù đệ tử thiên niên thọ trường"