Quan lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh là ai? Đền thờ ở đâu?
Nội dung chính [Hiện]
Đền thờ Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh, nơi thờ Thủy thần, một trong những ngôi đền linh thiêng nổi tiếng bậc nhất Việt Nam. Nhưng bạn đã biết đến đền thờ này chưa, sau đây trong bài viết này chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu.
Quan Lớn Tuần Tranh là ai?
Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh gọi nôm là Ông Lớn Tuần Tranh là vị tôn quan thứ năm trong Ngũ vị Tôn quan (Ngũ vị vương quan, ngũ vị tôn ông) trong Đạo mẫu, Tam phủ, Tứ phủ, sau hàng Tam vị Thánh mẫu.
Vai trò Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh là Thanh tra, giám sát nhân gian. Ngọc Hoàng ban cho Ngài thống lĩnh thiên địa binh, thay quyền tam tứ phủ đại diện cho con người (nhân vi chúa tể), thu chấp kim ngân tài mã, giải oan nghiệp sớ cho trần gian. Họ tên của Vị thánh này dần được sáng tỏ nhiều năm qua một số giá hầu đồng riêng biệt, khác nhau cả về địa điểm cũng như địa phương.
Quan Lớn Tuần Tranh có tên gọi khác là Ông Lớn Tuần Tranh, là vị tôn quan thứ 5 trong Ngũ vị Tôn Ông- Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh, sau Quan lớn Đệ Tứ Khâm Sai của tín ngưỡng thờ Tứ phủ. Ông được thỉnh cuối cùng nhưng lại là vị Quan Ông hay ngự về đồng nhất (bất cứ ai hầu Tứ Phủ, bất cứ dịp tiệc, đàn lễ nào đều phải thỉnh Quan Tuần Tranh về ngự). Ngài là vị tướng tài ba danh tiếng lẫy lừng, nắm quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh được nhân dân nhất mực tôn kính phụng thờ. Các giá hầu đồng về ông đều mặc áo bào mầu tím và cầm thanh đại đao - trang phục của ông sinh thời đánh giặc ngoại xâm.
Sự tích về Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
Sự tích về Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh, hay còn được gọi là Bát Hải Động Đình, là một trong những truyền thuyết phổ biến trong văn hóa dân gian Việt Nam. Dưới đây là phần nội dung của truyền thuyết này:
Theo truyền thuyết, Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh là một người con trai thứ năm trong một gia đình lái đò trên dòng sông Vĩnh, phủ Ninh Giang, thuộc tỉnh Hải Dương, trong thời kỳ Hùng Triều Thập Bát (thời Hùng Duệ Vương). Ông và vợ chưa có con, cho đến khi họ bắt được một con bào thiêng mang về nhà, trong đó có một ổ trứng trắng. Sau khi trải qua 9 mùa trăng, vào một ngày mưa giông, 9 quả trứng nứt vỏ và sinh ra 9 con rắn. Những con rắn này sau đó trở thành 9 chàng trai có khả năng biến hình.
Vào một thời điểm nước ta đang bị giặc ngoại xâm, vua Hùng lập đàn khấn cầu sự giúp đỡ của các thần linh. Khi nghe tin, 9 chàng trai biến hình từ 9 con rắn, cùng nhau đến tham dự yết kiến vua và xin tham gia vào cuộc chiến chống giặc. Nhờ sự quyết tâm và sự thông minh của 9 chàng trai, giặc ngoại xâm bị đánh bại chỉ trong một ngày và đất nước trở lại yên bình.
Vua Hùng đã phong cho 9 chàng trai này là 9 ông quan Hoàng, và vào ngày 22 tháng 8 năm Bính Dần, họ biến lại thành 9 con rắn và trở về với dòng sông Tam Kỳ.
Dựa trên sự kiện này, dân làng đã xây dựng 9 ngôi đền thờ tại các điểm từ bến đò Tranh đến cửa biển Diêm Điền, để tôn vinh những dũng tướng đã giúp vua Hùng trừ giặc. Trong số các đền thờ này, có đền Đồng Bằng, nơi thờ người cha làm nghề chèo đò trên sông. Đền này còn được gọi là vua cha Bát Hải, với duệ hiệu là Trấn Tam Kỳ giang linh ứng và Vĩnh Công đại vương.
Sử tích Cao Lỗ Vương - Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
Sự tích về Cao Lỗ, còn được biết đến với tên Vương Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh, là một câu chuyện lịch sử và truyền thuyết phong phú trong văn hóa dân gian Việt Nam. Dưới đây là nội dung của sự tích này:
Cao Lỗ (hay Cao Nỗ, Cao Thông, Đô Lỗ, Thạch Thần, Đại Thần Đô Lỗ Thạch Thần) là một nhân vật lịch sử được ghi trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Ông là một Đại thần - Danh Tướng của Thục Phán An Dương Vương. Ông sinh ra tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.
Cao Lỗ là người chế ra nỏ liên châu (bắn được nhiều mũi tên một phát), còn được gọi là nỏ thần. Ông cũng là người khuyên An Dương Vương dời đô xuống đồng bằng và thiết kế, chỉ huy xây dựng thành Cổ Loa. Ông đã tham gia nhiều cuộc chiến và thống lĩnh quân đội Âu Lạc để đánh bại quân xâm lược của Triệu Đà, Nam Việt Vương từ vùng Lưỡng Quảng.
Tuy nhiên, Cao Lỗ phải đối mặt với một số rắc rối và thử thách trong cuộc sống. Ông phải đối đầu với mưu mô của Triệu Đà, người đã dùng mưu kế lừa gạt để giành lấy công chúa Mị Châu, con gái của An Dương Vương, từ ông. Dù đã cố gắng can ngăn, nhưng ông không thể ngăn chặn được việc này. Triệu Đà sử dụng Mị Châu và Trọng Thủy, con trai của mình, để lấy thông tin về bí mật của quân đội Âu Lạc. An Dương Vương tin tưởng vào sự hòa hiếu và không tin vào lời cảnh báo của Cao Lỗ, kết hợp với việc một số quyền thần ganh ghét ông, cuối cùng Cao Lỗ bị buộc tội chém.
Dù có công lớn, nhưng Cao Lỗ bị bãi hết chức vụ và được đưa lên vùng biên ải, nay là tỉnh Lạng Sơn. Do bị oan ức và không thể giải thích được, cùng với tính cương trực không chịu khuất phục, ông đã thề lấy cái chết để chứng minh vô tội và nhảy xuống sông Kỳ Cùng tự vẫn.
Sau cái chết của Cao Lỗ, dân làng đã tôn vinh ông bằng cách xây dựng đền thờ tại nơi ông tuẫn tiết ở bên sông Kỳ Cùng và tại bến Tranh xã Ninh Giang, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương ngày nay.
Cao Lỗ là một nhân vật lịch sử và truyền thuyết đầy ý nghĩa, được nhớ đến và tôn vinh bởi sự dũng cảm, trí tuệ và lòng trung hiếu của mình.
Sự tích Quan đệ ngũ Tuần Tranh
Sự tích Quan Lớn Tuần Tranh vào thời Hùng Vương
Nỗi oan Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
Quan Tuần Tranh có ngự đồng không?
Trong các buổi lễ Mẫu - Tam tứ phủ, Ông Lớn Tuần Tranh đều giáng ngự đồng. Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ tán đàn rồi múa thanh long đao. Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ trạng rồi mới được đem đi hoá.
Đền thờ Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
Quan Tuần Tranh được thờ ở rất nhiều nơi, trong tất cả các đền, phủ, điện mẫu - Tam Tứ phủ nhưng đền chính là đền Tranh - Hải Dương và đền Kì Cùng - Lạng Sơn. Đền Ninh Giang lập bên bến sông Tranh ở xã Tranh Xuyên, tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại thời Lê và Nguyễn nay thuộc thị trấn Ninh Giang, tỉnh Hải Dương (là nơi chính quán quê nhà của ông, nơi ông trấn giữ duyên hải sông Tranh, cũng là nơi ông hiển tích) và đền Kì Cùng lập bên bến sông Kì Cùng ở xã Vĩnh Trại - Châu Thoát Lãng, nay thuộc thành phố Lạng Sơn (cầu Kì Lừa là nơi ông bị lưu đày)
Ngày tiệc Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
Hội đền Tranh là ngày mở tiệc đón, ngày Đản sinh (ngày 14/02 Âm lịch) từ ngày 10 đến 20/2, ngày tiệc chính của Ông là ngày Hóa (ngày 25/5 Âm lịch) từ ngày 20 đến 26/5 (là ngày ông bị lưu đày và nhân dân quê ông làm giỗ vào ngày này).
Bản văn Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
Đệ tử con khấu đầu cung thủ
Tiến văn chầu đệ ngũ tuần tranh
Uy gia lẫm liệt tung hoành
Trừ tà sát quỷ lên danh tướng tài
Việt sử chép Hùng triều thập bát
Cảnh địa linh Bạch Hạc Phong Châu
Dựng nền xã tắc dài lâu
Nhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìn
Vừa gặp hội bể yên sóng lặng
Triệu bách thần gia tặng phong công
Quan Tuần Tranh lẫm liệt oai hùng
Cứu dân hộ quốc nên công hàng đầu
Giảo Long hầu khâm ban sắc tứ
Trấn Ninh Giang thuỷ bộ chư danh
Bao phen đắp luỹ xây thành
Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng
Sông Tranh ơi hỡi sông Tranh,
Non nước còn ghi trận tung hoành,
Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,
Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh.
Ai về qua bến sông Tranh,
Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời.
Dẫu rằng nước chảy hoa trôi,
Sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi.
Loa đồng hỏi nước sông Tranh,
Long đao cứu nước, anh hùng là ai?
Sông Tranh đáp tiếng trả lời,
Có Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang
Tài cung kiếm sánh cùng võ tử
Đức kinh luân ví tựa Trương Tô
Phong lưu mã thượng giang hồ
Cung cầm dưới nguyệt con đò trên sông
Chí đã quyết ngoài vòng cương toả
Hay đâu là duyên nợ ba sinh
Buồng xuân thiếu bạn chung tình
Thoả lòng tráng sĩ tài anh phỉ nguyền
Thề non nước nên duyên kì ngộ
Bỗng đâu ngờ mắc nợ oan khiên
Tin đâu khẩn cấp ban truyền
Quan quân tầm nã khắp miền sông tranh
Có ngờ đâu đất trời thay đổi,
Người anh hùng cổ nặng xiềng gông.
Ngài bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng
Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân
Trước cung điện, triều đình tra xét,
Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi.
Ngài oan vì ong bướm lả lơi,
Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.
Lệnh viễn xứ sơn cùng, thuỷ kiệt,
Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.
Hoàng bào đã nhuôm chàm xanh
Tấm thân đành nhục vinh lẽ thường
Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ
Hỏi trăng già có tỏ cho ai
Hỏi trăng hỏi gió hỏi trời
Hỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâu
Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,
Vẫn vươn mình há ngại phong ba.
Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,
Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng
Thà thác vinh còn hơn sống nhục,
Sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn
Kiệt cùng hiu hắt trăng non
Sông Cùng trong đục nước tuôn đôi dòng
Ngẫm cảnh vật lòng đau như cắt
Nợ trần hoàn quyết dứt cho xong
Lòng riêng đã quyết với lòng
Mượn dây oan nghiệt cho xong tội trời
Rừng hoa cỏ thương người đã khuất
Bỗng đùng đùng gió giật mưa sa
Nỗi oan chuyển động đất trời
Dây oan kia biến thành đôi bạch xà
Đất Ninh Giang tìm nhà có phúc
Thử lòng người trong lúc lánh thân
Tháng hai vừa tiết trung tuần
Thử lòng ông lão mộng thần ứng ngay
Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ
Đôi bạch xà tựa cửa hai bên
Long xà kì dị thảo hiền
Từ khi xuất hiện vui thêm cửa nhà
Ba tháng sau đàn gà đã hết
Thương rắn hiền không biết lo sao
Khó Khăn âu cũng tính liều
Ông bà nông lão sớm chiều đông tây
Bỗng một buổi tai bay hoạ rủi
Hai ông bà mắc tội cửa công
Lệnh nghiêm sấm sét đùng đùng
Tậu gà nuôi rắn không dung tội này
Lệ nuốt lệ đắng cay xiết kể
Thương rắn thần tựa thể thương con
Khấu đầu tạ trước công môn
Xin đem đôi rắn thả luôn giữa dòng
Cơn phong vũ ầm ầm nổi dậy
Sóng bạc đầu nước xoáy mênh mông
Long xà thoát xuống thuỷ cung
Nước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chan
Khắp duyên hải sấm ran từ đấy
Bóng long hầu nổi dậy nơi nơi
những phường bán nước hại nòi
Gian tà quỷ quyệt tội trời không tha
Dìm đáy nước về toà thuỷ tộc
Tội gia hình bõ lúc sai ngoa
Lẽ thường tội báo oan gia
hại nhân nhân hại sự đà không sai
Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,
Triều đình ra lệnh tiến binh,
Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp trời.
Bỗng nổi trận phong lôi bão táp
Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh
Hỏi ra mới biết sự tình
Thiết bày hương án lễ trình bên sông
Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm
Khấn vừa xong gió lặng sóng yên
Uy linh sự đã hiển nhiên
lệnh truyền dân xã lập đèn bên sông
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Tước phong hầu truy tặng Đại vương,
Bảng vàng thánh thọ vô cương
Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.
Gương anh hùng muôn đời soi tỏ,
Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,
Bao phen đắp luỹ xây thành,
Khắp miền duyên hải, sông Tranh nức lòng.